Sở Vương đang đứng ở phía sau họ cách đó
không xa, khiếp sợ nhìn hai người: “Không… không thể nào. Hai người… hai người
sao có thể…”.
Tác giả: Cảnh Văn
Biên dịch: Tích Vũ
Chương 32: Vỡ lở
Trong hoa viên của phủ
Trần Vương, Bàng Tịch nhìn bàn cờ trước mắt, vừa nhẹ nhàng lắc đầu vừa than thở:
“Thật không ngờ, thật không ngờ”.
Trần Vương Triệu Nguyên
Hựu lạnh lùng ngồi đó: “Ngươi muốn nói gì, cứ việc nói thẳng”.
“Thần đang nói đến Triệu
Đức Phương. Thật không ngờ cậu ta rơi vào tình cảnh như vậy, vẫn còn đi giúp Sở
Vương cho được.”
“Hiện giờ Đức Phương
hoàng huynh rất được phụ hoàng tin tưởng, ta thấy huynh ấy chính là tâm phúc đại
họa. Chúng ta nên đối phó với huynh ấy trước mới đúng.”
“Ha ha, vương gia, ta
dám khẳng định bệ hạ đối với cậu ta không chỉ là tin tưởng không đâu, mà phải
chiều chuộng mới đúng”. Nụ cười của Bàng Tịch không khác gì độc xà lạnh như
băng chạy vào lòng Triệu Nguyên Hựu.
“Ý ngươi là gì, lẽ nào
phụ hoàng diệt trừ Đình Mỹ vương thúc thật sự là để truyền ngôi lại cho Đức
Phương hoàng huynh?”.
“Ha ha”. Bàng Tịch
không khỏi cười thành tiếng: “Vương gia, sao ngài lại nghĩ như vậy. Chuyện này
tuyệt đối không xảy ra”.
“Sao không chứ. Nếu làm đúng theo Kim Quỹ Chi Minh, thì hoàng trừ(*)
Triệu Đức Phương cũng có phần đấy.”
(Chú
thích: Hoàng
trừ là người được xác định để thừa kế ngôi vua.)
Bàng Tịch không cười nữa, cúi đầu suy ngẫm chốc lát, sau đó ngẩng đầu
lên nói: “Vương gia, chỉ cần diệt trừ Sở Vương, hoàng trừ chắc chắn là ngài
luôn. Triệu Đức Phương cũng chẳng có cơ hội đâu. Bệ hạ đối với cậu ta chỉ là nhất
thời si mê nhan sắc, nếu cậu ta uy hiếp đến địa vị hoàng trừ của huynh đệ các
ngài, bệ hạ nhất định không dễ dàng bỏ qua cho cậu ta. Ngài cứ yên tâm đi”.
“Ngươi… ngươi nói cái gì?”. Con cờ trong tay Triệu Nguyên Hựu rơi cộp xuống
đất: “Si mê nhan sắc?”.
Bàng Tịch gật đầu, ngắm nghía con cờ trong tay: “Trước đây thần còn chưa
dám khẳng định. Thế nhưng từ sau tết Trùng Cửu, hành động khác thường của bệ hạ
đã khiến thần hiểu ra rồi. Bệnh này của Bát Vương không đơn giản đâu”.
Triệu Nguyên Hựu đột nhiên đứng dậy kéo cổ hắn lại, trợn mắt quát lên:
“Ngươi ăn nói xằng bậy, cấm được bêu xấu phụ hoàng ta”.
“Điện hạ”. Bàng Tịch không nhanh không chậm nói tiếp: “Ngài cứ ngẫm mà
xem, có vị vương gia đã lập phủ riêng nào lại có thể say rượu qua đêm ở trong
cung hay không? Có vị vương gia nào nhiễm phong hàn lại được ở trong cung dưỡng
bệnh hay không?”.
Triệu Nguyên Hựu nghi hoặc không thôi từ từ buông lỏng tay ra.
Bàng Tịch chỉnh trang lại y phục, khẽ cười nói: “Vương gia, Bàng mỗ
không bao giờ đoán mò đâu. Bát Hiền Vương tuyệt đối không phải kẻ địch hiện tại
của ngài, người ngài nên toàn lực đối phó là Sở Vương ấy”. Hắn đột nhiên vỗ vỗ
đầu: “Ối chao, có rồi! Chúng ta nên chỉ điểm cho Sở Vương mới đúng. Với tính
tình nóng nảy của ngài ấy, biết được chuyện này chắc chắn sẽ có trò hay để
xem”.
Đêm khuya, một bóng người mặc quần áo hầu gõ cửa ngách của Nam Thanh
Cung. Cửa ngách mở ra, một luồng sáng phản chiếu trên người kẻ đến, phát ra từ
tấm kim bài Đông Cung sặc sỡ ánh vàng trên tay. Cánh cửa nhỏ được đóng lại lần
nữa, người đó chờ sau cánh cửa, không bao lâu thì cửa lại mở ra, gã hầu lách
mình đi vào.
Triệu Đức Phương xem lá thư, khẽ nhăn mày. Đọc xong cậu ngẩng đầu cười:
“Sở Vương còn lời nào khác không?”.
“Bẩm thiên tuế, Sở Vương điện hạ chỉ dặn tiểu nhân mang thư đến, ngoài
ra xin thiên tuế có hồi âm”. Gã hầu quỳ trên mặt đấu khéo léo đáp lại.
“Ừm, ngươi cứ nói ta nhất định sẽ giúp đệ ấy”. Triệu Đức Phương phất
tay, ý bảo hạ nhân dẫn gã hầu đi khỏi.
Triệu Đức Phương cất lá thư vào tay áo, mặc bộ trường bào bằng gấm, tiện
tay buộc vạt áo lại, đi dưới ánh trăng vàng óng, hướng thẳng tới phòng khách
phía Tây.
Cậu đi đến trước cửa phòng Khấu Chuẩn nhẹ nhàng gõ cửa: “Bình Trọng
huynh, huynh ngủ chưa?”.
Trong phòng lập tức có tiếng động, không lâu sau, Khấu Chuẩn mở cửa, ngạc
nhiên nhìn Triệu Đức Phương.
Triệu Đức Phương cười tươi dưới ánh trăng trong: “Đi uống rượu với ta
đi!”.
Hai con ngựa chạy trên mặt đường lát đá xanh, gõ những tiếng lộp cộp chạy
thẳng sang phía Tây kinh thành.
Ánh trăng lẳng lặng chiếu xuống mặt nước dưới cầu Kim Lương, bóng trăng
bàng bạc dập dềnh theo con sóng lăn tăn, cỏ xanh hai bên hồ lác đác sương đêm, khói
mù mờ bốc lên trên mặt hồ.
Triệu Đức Phương thuận tay bỏ dây cương xuống, đi đến bờ đê, chọn đại một
chỗ ngồi xuống, nhìn mặt hồ thoáng đãng trước mắt, hít thở một nhịp thật sâu.
Khấu Chuẩn buộc dây cương vào gốc cây, cầm hai bầu rượu đi đến bên cạnh cậu,
ném một bình cho Triệu Đức Phương.
“Huynh đang bận lòng chuyện gì vậy?”.
“Bình Trọng, ở trong lòng huynh, Đông Kinh rốt cuộc là nơi như thế
nào?”. Triệu Đức Phương cầm bầu rượu, nhẹ giọng hỏi.
“Hờ hờ, là nơi tràn ngập đấu đá dưới lớp vỏ phú quý vinh hoa, cũng là
nơi ta ôm mọi hoài bão”. Khấu Chuẩn mở nút bầu rượu ra, ngựa đầu uống một hơi:
“Nơi một ngày nào đó có thể giúp ta hoàn thành tâm nguyện”.
“Tâm nguyện?”. Triệu Đức Phương quay sang nhìn y: “Tâm nguyện gì vậy?”.
“Ha ha, vương gia. Đừng có nói là huynh không đoán được nhé”. Khấu Chuẩn
ngồi xuống bên cạnh cậu, ánh mắt sáng quắc: “Chính là có thể ngày nào cũng được
như hôm nay, cùng huynh ngắm trăng uống rượu”.
Triệu Đức Phương cúi đầu, khẽ mỉm cười: “Vậy huynh có biết Đông Kinh
trong lòng ta là thế nào không?”.
Khấu Chuẩn quay sang nhìn cậu, ánh mắt Triệu Đức Phương lạc vào mặt nước
hồ lãng đãng hơi sương: “Đó là một thành thị phồn hoa mỹ lệ, mãi mãi tràn trề sức
sống. Thể nhưng ở trung tâm của nó, lại là một vực sâu vô bờ”.
Khấu Chuẩn thở dài: “Huynh nói đại nội hả?”.
“Không ngờ trên đời lại có một nơi như vậy. Ở nơi này, chuyện huynh đệ đấu
đá, cốt nhục tương tàn lại diễn ra như thể đương nhiên”. Một thứ chất lỏng lạnh
lẽo mà cay đắng theo yết hầu chạy vào trong thân thể, mang theo nỗi hể hả không
nói được thành lời, giọng nói cũng khàn đi: “Còn có thể đường hoàng mà đạp lên
luân thường, làm những điều xấu xa nhơ bẩn”. Ánh mắt cậu mịt mờ nhìn sang Khấu
Chuẩn: “Có lẽ cả đời này ta cũng không thể thoát khỏi cái vực sâu ấy. Huynh thật
sự muốn nhảy vào làm bạn với ta sao? Thật ra làm một quan chức địa phương cũng
tốt lắm, có thể tạo phúc một vùng”.
Khấu Chuẩn bật cười: “Huynh khỏi cần khuyên nữa. Cần gì cứ loanh quanh
không chịu thành thật nói là không muốn ta rời khỏi đây đi”.
Triệu Đức Phương để bầu rượu xuống, vùi đầu xuống gối, giọng đầy rầu rĩ:
“Nếu như huynh nhảy vào, ta cũng không bảo vệ được huynh. Giống Kỳ Thụy vậy, cả
tam thúc… còn có mẫu thân. Những người ta quan tâm, cuối cùng đều không giữ được”.
Khấu Chuẩn nhìn hai tay cậu siết chặt lại với nhau, tim đột nhiên đau đớn.
Y ngẩng đầu ực một hớp rượu mạnh, sau đó cười lớn: “Vậy huynh có biết vì sao ta
nhất định phải đến đây không?”.
Triệu Đức Phương ngẩng đầu nhìn y.
Khấu Chuẩn nhìn vào mắt Triệu Đức Phương, giọng nói thong thả mà đầy quyết
đoán: “Bởi vì ta phải bảo vệ huynh. Thật ra huynh ở trong lòng ta vẫn luôn là
thiếu niên mong manh cô độc bên cạnh Tây Hồ năm ấy”. Nói xong y đặt bầu rượu xuống,
tự tay kéo những ngón tay thon dài mạnh mẽ kia ra: “Vì vậy ta mới là người cần
bảo vệ huynh. Đợi ta trở lại Đông Kinh, ta nhất định sẽ là một người có sức mạnh đứng ngay bên cạnh huynh. Huynh cứ việc
yên tâm đi”.
Có một thời khắc, giống như ánh trăng đã rơi vào trong đáy mắt chất chứa
ưu phiền kia, sau đó biến nó thành nụ cười chân thực: “Huynh là người có sức mạnh?”. Cậu vừa dứt lời, đã đấm ngay một quyền
thật mạnh vào vai phải Khấu Chuẩn.
Khấu Chuẩn không kịp đề phòng, bị xung lực cực đại đánh ngã ngửa trên mặt
đất. Bầu rượu đổ ra, khiến cả người y ướt đẫm.
“Trời ơi, huynh này. Sao lại cứ kỳ cục như thế chứ!”. Khấu Chuẩn chật vật bò dậy: “Động thủ với một thư sinh
thật quá là mất phong độ”.
Triệu Đức Phương cười đến vô tội: “Không phải huynh vừa nói mình là người có sức
mạnh mà, nên ta muốn xem huynh mạnh cỡ nào thôi”.
Khấu
Chuẩn tức anh ách, lăn quay hai vòng, cuối cùng vẫn ngoan ngoãn ngồi xuống bên
cạnh Đức Phương: “Thôi bỏ đi bỏ đi, ta không chấp nhặt huynh!”. Nói xong y chộp
lấy bầu rượu trong tay Đức Phương tu ừng ực.
“Bình
Trọng, ngày mai huynh lên đường đi”. Giọng nói nhẹ nhàng truyền vào tai y.
Khấu
Chuẩn bỏ bầu rượu trên miệng xuống, quay sang nhìn cậu. Ánh mắt Triệu Đức
Phương đã bình tĩnh trở lại: “Ta quyết định sẽ cứu Tề Vương thúc, sắp tới sẽ có
rất nhiều chuyện phiền phức. Huynh cứ nên nhanh chóng về quê thăm người thân
đi”. Cậu quay sang vừa đúng lúc chạm phải ánh mắt Khấu Chuẩn, cậu cười thoải
mái: “Yên tâm, không có chuyện gì đâu mà”.
Khấu
Chuẩn nhìn nụ cười bình thản của cậu, gật đầu nói: “Được. Trước mắt vẫn là
huynh mạnh hơn, ta nghe huynh”.
“Ồ,
nói vậy nếu sau này huynh mạnh hơn ta, ta sẽ phải nghe lời huynh à?”.
“Hà
hà, cái đó là đương nhiên rồi”.
“Oái!”.
Bên hồ lại truyền đến tiếng kêu la inh ỏi, khiến cho lũ chim náu mình trong những
bụi rậm quanh đó nháo nhác bay lên.
Hoàng
đế ở trong thư phòng, nhìn Triệu Phổ quỳ trên mặt đất, lạnh lùng nói: “Nguyên
Tá muốn giết khanh?”.
“Bệ
hạ, lão thần không dám nói bừa. Sở Vương đã rút kiếm ra khỏi bao rồi, còn chém
bị thương Bát Hiền Vương điện hạ lúc ấy chạy đến khuyên can, tình hình lúc đó
thật sự vô cùng nguy cấp”. Triệu Phổ dập đầu trên đất, nước mắt lưng tròng: “Bệ
hạ, lão thần một lòng trung quân báo quốc, lại khiến Sở Vương điện hạ hiểu lầm
đến vậy, lòng đau sao thấu!”.
Hoàng
đế trầm giọng: “Nguyên Tá tính tình nóng nảy, hành động có phần quá khích là vì
từ nhỏ thân thiết với tam thúc nó. Triệu đại nhân không cần phải canh cánh
trong lòng. Ông lui xuống trước đi”.
Triệu
Phổ khom người ra khỏi thư phòng.
Nhìn
thấy hai cuốn sổ tấu của Triệu Nguyên Hựu và Triệu Đức Phương xin cho Tề Vương về
kinh dưỡng bệnh, hoàng đế rơi vào trầm tư. Một lúc lâu sau, hoàng đế đột nhiên
đứng dậy đi ra ngoài, căn dặn: “Đến Nam Thanh Cung”.
Một
chiếc kiểu nhỏ, chỉ có bốn thị vệ đi theo.
Hoàng
đế đến trước cửa Nam Thanh Cung, phất tay cho người gác cổng lui ra, một mình
chậm rãi vào trong. Hạ nhân ở Nam Thanh Cung không nhiều, bóng trúc đong đưa, thanh
tĩnh hơn hoàng cung nhiều lắm.
Đây
không phải lần đầu tiên hoàng đế đặt chân đến nơi này, cho nên bước chân rất
quen lối, vòng qua tiền sảnh và trái nhà phía Tây, đi đến hậu viện.
Từ
xa Triệu Quang Nghĩa đã nhìn thấy Triệu Đức Phương chỉ mặc một tấm áo kép mỏng,
giơ trường cung trên tay, đang tập bắn tên. Giữa đội thị vệ mặc toàn áo đen,
dáng người tựa như trăng sáng của cậu nổi lên rõ ràng, đôi môi nở nụ cười rạng
rỡ khiến cho lòng hoàng đế nhói đau.
Vì
sao những lúc không phải đối diện với mình, người ấy mới không hề phòng bị mà để
lộ thần thái khiến người say mê đến vậy?
Tiếng hoan hô truyền đến, Mộ Vân Phong là thống lĩnh của đám thị vệ dõng dạc
khen: “Vương gia, cả hai mũi tên đều trúng hồng tâm rồi!”. Triệu Đức Phương cười
tươi quay đầu nhìn anh, trong mắt lại đập vào bóng dáng đứng ở đằng xa.
Toàn bộ thị vệ lui hết xuống, chỉ còn lại hoàng đế và Đức Phương đứng nhìn
nhau.
Từ lần trước hoàng đế tức giận bỏ đi, hai người chưa hề chạm mặt. Hôm nay
hoàng đế lại đến Nam Thanh Cung, lòng Triệu Đức Phương hiểu rõ, quá nửa là vì
cuốn sổ tấu của mình.
Hoàng đế đi đến cạnh cậu: “Bắn cung giỏi lắm”.
“Tạ ơn bệ
hạ”. Triệu Đức Phương hơi cúi đầu.
Mặc dù không nhìn rõ biểu cảm của cậu, nhưng Triệu Quang Nghĩa cũng có thể
cảm nhận được sự lạnh lùng xa cách đến ngàn dặm. Lòng hoàng đế không khỏi có
chút buồn bực.
“Trẫm đọc bản tấu của con rồi. Nguyên Tá cũng có một bản, đại ý thì như
nhau cả, đều nói muốn đón tam thúc con về kinh dưỡng bệnh. Trẫm đến để hỏi con,
vì sao lại chịu dâng tấu?”.
Triệu Đức Phương vẫn cúi thấp đầu: “Tam thúc cả đời nhân hậu khoan dung, giờ
lại bệnh không dậy nổi, con và đại hoàng tử cũng chỉ vì chút lòng hiếu thảo,
dâng tấu là chuyện đương nhiên thôi”.
“Con cảm thông với ông ta? Đó là người đang gánh tội phản nghịch đấy!”.
“Tam thúc có tội hay không, Đức Phương không dám phán bừa. Thế nhưng nếu đại
hoàng tử có tấm lòng hiếu thảo, thì Đức Phương nhất định giúp đỡ đệ ấy.”
“Nguyên Tá? Thì ra con vì Nguyên Tá?”. Hoàng đế nhíu mày: “Ta nghe nói mấy
ngày trước Nguyên Tá làm con bị thương, không nghiêm trọng chứ?”.
“Chỉ là do Đức Phương không cẩn thận tự làm mình bị thương, không liên
quan gì đến đại hoàng tử.”
Thấy cậu tỏ ra không hề hấn gì, hoàng đế rốt cuộc nổi giận, đột nhiên
giơ tay bóp mạnh vai Triệu Đức Phương: “Ngẩng đầu nhìn ta! Tại sao ta quan tâm
ngươi, ngươi lại làm như không thấy, chỉ lo né tránh thôi hả?”.
Triệu Đức Phương cười nhạt, không hề nhìn ông ta: “Phiền bệ hạ lo lắng.
Vết thương này thật sự là do Đức Phương không cẩn thận tự gây ra, hơn nữa đã lành
từ lâu rồi”.
Hoàng đế gật đầu: “Ngươi định cứ tiếp tục ương ngạnh giằng co như vậy hả?”.
“Chỉ cần ta còn sống, sẽ luôn như vậy”. Ngữ điệu của Triệu Đức Phương vô
cùng lãnh đạm, càng khơi thêm cơn giận của hoàng đế, ánh mắt Triệu Quang Nghĩa
dần trở nên nóng nảy: “Được, nếu đã vậy, bản tấu của ngươi, ta không phê chuẩn”.
“Bệ hạ”. Triệu Đức Phương quay sang nhìn Triệu Quang Nghĩa, lạnh lùng
nói: “Rốt cuộc ngài còn nhớ rằng tam thúc và chúng ta là người một nhà hay
không hả? Tam thúc có tội hay không, lẽ nào ngài thật sự không biết? Ngài không
đau lòng khi thấy thúc ấy chết nơi đất khách hay sao?”.
Nghe đến mấy chữ “chết nơi đất khách”, con ngươi đầy lửa giận của hoàng
đế thoáng xao động.
Triệu Đức Phương nói tiếp: “Ngài là thúc phụ của con, vì sao con lại phải
đáp trả tình cảm của ngài chứ. Không phải ai cũng có thể bất chấp luân thường đạo
lý đâu”. Ánh mắt của cậu mịt mờ hơi sương: “Lẽ nào con không đáp trả ngài, là con
có tội hay sao?”.
Hoàng đế nhìn vào ánh mắt thấp thoáng sự quyết liệt thê lương của Triệu
Đức Phương, bàn tay kìm kẹp vai cậu cũng từ từ thả lỏng.
“Không phải lỗi của con”. Hoàng đế lẩm bẩm: “Là do ta không buông tay được”.
Hoàng đế lặng im trong chốc lát, đột nhiên cười đau đớn, vươn tay ôm lấy
Triệu Đức Phương, nói rõ từng chữ vào tai cậu: “Ta đi đến bước này, đã đánh mất
quá nhiều rồi. Ta không thể mất nốt con. Cho nên vẫn là câu nói kia, cho dù con
hận ta, ta cũng không buông tay”.
“Phụ hoàng!”. Tiếng gọi khẽ khàng của Sở Vương truyền đến.
Hoàng đế giật nảy mình, vội vàng buông Đức Phương ra.
Sở Vương đang đứng ở phía sau họ cách đó không xa, khiếp sợ nhìn hai người:
“Không… không thể nào. Hai người… hai người sao có thể…”.
Triệu Đức Phương cười chua chát, quay người cầm trường cung đi đến bên hồ.
Đã biết trước sẽ có ngày này, chỉ không ngờ lại sớm như vậy.
Post a Comment