ĐẠO
MỘ BÚT KÝ
CHUNG
CỰC GIẢI MÊ
Viết
bởi: Noãn Hòa Hồ Ly Bắc Kinh
Dịch
bởi: Tích Vũ
Chung cực giải mê – Phần 03: Sợi dây mê thứ
hai - Cốt lõi của Đạo Mộ Bút Ký: Sự phát triển bí mật trường sinh bất lão thời
cổ đại.
Thứ nhất, thời đại Phục Hy – Nữ Oa, khởi nguồn của nền
văn minh Trung Hoa cổ đại.
Khi đó con người có hai đặc điểm, thứ nhất là có thể
sống cả ngàn năm, thứ hai là nhân thú hợp thể. Hình tượng của Phục Hy - Nữ Oa
chính là đầu người thân rắn, hơn nữa là anh em kết hôn với nhau. Đây là bí mật
cách thức trường sinh của họ, bởi vì có nhiều loài động vật sống lâu hơn con
người rất nhiều, thời đại Phục Hy là thời sống cộng sinh giữa người và thú.
Đầu tiên, họ có thể sử dụng Thanh Đồng cổ khống chế
hành vi động vật, chiếc chuông trên đuôi của bọ ăn xác chúa trong Lỗ Vương cung
chính là loại Thanh Đồng này.
Bọn họ có thể trường sinh, có lẽ do đã để loài vật
nào đó sống trong thân thể mình, hình thành mối quan hệ cộng sinh.
Như Phục Hy hẳn đã bỏ rắn vào trong bụng, như vậy
ngài có thể có được tuổi thọ của rắn, đồng thời giữ nguyên được tư duy con người.
Khuyết điểm duy nhất là biến thành hình dạng đầu người thân rắn (kết hợp gen giữa
rắn và người), mang thân hình “yêu quái”!
Tuy rằng tuổi thọ của Phục Hy Nữ Oa rất dài, nhưng họ
vẫn sẽ chết, khi con rắn nằm trong cơ thể họ chết đi, họ cũng sẽ chết theo. Phục
Hy sống 1,100 tuổi hẳn là tuổi thọ của rắn cộng sinh trong cơ thể ngài.
Đây là trường hợp trường thọ xưa nhất được ghi nhận,
cũng là khởi điểm của tất cả các biện pháp trường sinh đến nay.
Bên trên tôi đã đề cập qua, di tích cổ xưa và cánh cửa
Thanh Đồng dưới lòng đất Vân Đỉnh Thiên Cung chính là do Phục Hy để lại.
Bộ lạc Đông Di có một số loài vật cổ, đều bị con người
dùng Thanh Đồng thuần hóa, phục vụ cuộc sống hoặc cộng sinh với con người.
Đại du diên, mang nguyên hình rồng.
Đại điểu, mặt người thân chim.
Rắn, Phục Hy mặt người thân rắn.
Sâu bọ, trùng đồ đằng của bộ lạc Phục Hy.
Thứ hai, theo dòng chảy của lịch sử, sau khi Phục Hy
chết, bộ lạc Đông Di bắt đầu chia cắt:
Một nhánh của Hoàng Đế, đi tới vùng Trung Nguyên, bắt
đầu phát triển ngành trồng trọt chăn nuôi.
Một nhánh của Xi Vưu, phát triển một nền tế tự vu cổ
và văn minh Thanh Đồng rực rỡ ngay tại Hà Bắc.
Một nhánh của Tây Vương Mẫu, đi tới núi Côn Lôn,
mang theo chim, rắn và trùng.
Ba bộ lạc bắt đầu phát triển theo các phương thức
khác nhau, nói đơn giản, Hoàng Đế thích hòa bình xây dựng, Xi Vưu thích chinh
chiến cúng tế, Tây Vương Mẫu lại thích nghiên cứu và phát triển thuật trường
sinh bất lão.
Nhưng lúc đó, bọn họ vẫn duy trì hình dạng nhân thú
cộng sinh từ thời Phục Hy: “Sơn Hải Kinh” miêu tả, Hoàng Đế, Xi Vưu, Tây Vương
Mẫu đều là quái vật nửa người nửa thú, Hoàng Đế là người kết hợp với rồng, Xi
Vưu là người hợp nhất với chim, Tây Vương Mẫu còn kết hợp nhiều loại động vật
hơn nữa, điều này đã cho thấy, bọn họ vẫn duy trì cách thức trường sinh “cộng
sinh giữa người và thú”, tuổi thọ của bọn họ, đều khoảng hơn ngàn năm.
Thứ ba, sau đó chiến tranh bắt đầu nổ ra.
Đầu tiên là bộ lạc Viêm Đế đánh nhau với Hoàng Đế,
Viêm Đế là đại biểu của nền văn minh nông nghiệp, sau đó, hai bộ lạc này hợp nhất,
hình thành tổ tiên của Hoa Hạ. Tiếp theo là cuộc chiến giữa Viêm Đế và Xi Vưu.
Xi Vưu mang hình tượng chiến thần, lại biết thuật vu cổ, ban đầu Hoàng Đế không
đánh lại Xi Vưu, đến khi Tây Vương Mẫu đứng về phía Hoàng Đế, bà phái Cửu Thiên
Huyền Nữ (mặt người mình chim), trợ giúp Hoàng Đế hóa giải vu cổ của Xi Vưu, Xi
Vưu thua trận bị giết, từ đó bộ tộc Xi Vưu tản mác khắp nơi, một bộ phận gia nhập
bộ lạc của Viêm Hoàng, một bộ phận khác lưu lạc đến Trường Sa, rồi đến Quảng
Tây, Vân Nam, trở thành tộc Miêu, tộc Dao.
Từ đây về sau lịch sử bước vào thời đại “Ngũ Đế”:
Bộ lạc Xi Vưu lưu lạc khắp nơi, chắc hẳn cũng dần mất
đi thuật trường sinh “nhân thú cộng sinh”, chỉ còn một số ít hậu nhân vẫn còn
giữ gìn được nền văn minh Thanh Đồng và phát triển nền văn hóa vu cổ.
Nhánh của Hoàng Đế tiếp tục phát triển lớn mạnh, trở
thành dòng chính của nền văn minh Trung Hoa, đi theo trồng trọt chăn nuôi mà
quên dần và từ bỏ hình tượng yêu quái “nửa người nửa thú”, dần dần biến thành
người bình thường, đương nhiên cũng mất đi khả năng “trường sinh”.
Chỉ có Tây Vương Mẫu, kế thừa và phát triển thuật
trường sinh từ thời Phục Hy.
Thứ tư, trong khoảng thời gian từ thời Hoàng Đế đến
giữa thời Tây Chu:
Trung Nguyên đang trải qua bước chuyển mình từ thời
Tam Hoàng Ngũ Đế đến triều Hạ, Thương, Chu.
Trong khi đó, Tây Vương Mẫu ở Côn Lôn vẫn tách mình
khỏi mấy nghìn năm năm chiến tranh chinh phạt ở Trung Nguyên, đứng riêng một trời
đất.
Tây Vương Mẫu có lẽ là hậu duệ gần gũi nhất, chính
tông nhất của Phục Hy Nữ Oa, bởi vì văn hóa bộ lạc Phục Hy thuở ban đầu được bà
gìn giữ nguyên vẹn nhất.
Mà, Tây Vương Mẫu cũng vẫn mải miết nghiên cứu thuật
trường sinh suốt mấy nghìn năm.
Vì sao Tây Vương Mẫu lại muốn dời đến núi Côn Lôn?
Câu trả lời là: Vì ngọc!
Đúng vậy, chính là ngọc. Trong nền văn hóa cổ đại
Trung Hoa, Tây Vương Mẫu nổi danh với ngọc, một loại ngọc màu đen có thể giúp
cho người ta “trường sinh bất lão”. Có ghi chép từng chỉ ra rằng, Tây Vương Mẫu
từng dùng loại ngọc này chế thành “ngọc anh” cho Hoàng Đế ăn, sau khi ăn có thể
giữ cho dung nhan trẻ mãi, trường sinh bất tử.
Mọi người có cảm thấy quen không? Đúng vậy, ngọc này
chính là vẫn ngọc mà Văn Cẩm đã tiến vào, cũng là chất liệu tạo nên áo ngọc của
Lỗ Thương Vương.
Nắm rõ thuật “nhân thú cộng sinh” của Phục Hy, thuật
khống chế xà điểu, thêm vào thuật giữ cho dung nhan ngàn năm trẻ mãi, Tây Vương
Mẫu bắt đầu cuộc thực nghiệm trường sinh bất lão cả mấy ngàn năm, mở màn một vở
kịch vô cùng đặc sắc.
Ba phương pháp trường sinh bất lão của Tây Vương Mẫu:
Phương pháp thứ nhất: Nhân thú cộng sinh.
Đây vẫn là phương pháp cũ Phục Hy truyền lại, người
kết hợp với rắn, người kết hợp với chim vân vân, lý thuyết trường sinh của cách
thức này chính là: Nếu như con người sống bình thường, thì có thể chiếm được tuổi
thọ của loại động vật cộng sinh trong cơ thể, trên dưới ngàn năm. Nếu như người
gặp phải chuyện gì bất trắc, thì chỉ cần loài vật sống trong cơ thể mình còn sống,
thì bằng cách cộng sinh giữa người và động vật, động vật sẽ có được trí nhớ và
ý thức của con người, tiếp tục cộng sinh với một người khác đã bị gột sạch ký ức,
thực hiện việc “chuyển thế”.
Nhược điểm của phương pháp này là đến khi loài vật sống
trong cơ thể người chết đi, người cũng sẽ chết theo, thêm nữa tất cả sẽ đều biến
thành yêu quái nửa người nửa thú.
Lúc đầu chắc chắn Tây Vương Mẫu đã dùng biện pháp
như thế, cho nên bà mới mang bộ dạng yêu quái.
Điều này có thể chứng minh bằng di tích ở Xà Chiểu,
với những người phụ nữ mặt người thân rắn trên bức bích họa cộng thêm những con
rắn mào gà có hành vi cổ quái (rắn mào gà là loại rắn có linh tính được Tây
Vương Mẫu thuần dưỡng dùng cho việc nhân thú cộng sinh thời kỳ đầu).
Biện pháp thứ hai: Đan dược = ngọc anh + bọ ăn xác
chúa.
Nhược điểm của biện pháp trường thọ “nhân thú cộng
sinh” chính là cốt lõi thay đổi của Tây Vương Mẫu.
Động vật sống trong cơ thể người chết thì người cũng
chết theo, vậy phải làm sao bây giờ?
Có thể tìm cách giữ lại trí nhớ và ý thức của con
người, đồng thời giữ cho thân thể không thối rữa và sống lại?
Có thể không mang bộ dạng yêu quái nữa không?
Động vật cộng sinh trong cơ thể người có kích thước
rất nhỏ, không giống chim hay đại xà.
Tây Vương Mẫu phát hiện ba thứ: Bọ ăn xác, vẫn ngọc
(thiên thạch), và rắn mào gà chúa.
Bọ ăn xác là loại động vật dùng cách đẻ trứng trong
não người mà bảo tồn ký ức con người, kích thước cũng nhỏ, có thể trở thành động
vật cộng sinh mới.
Vẫn ngọc – người ăn vào lúc sống có thể giữ cho dung
nhan trẻ mãi không già, sau khi chết đi cũng có thể giữ cho thi thể không thối
rữa.
Rắn mào gà chúa, khẳng định là rắn thần có thể sống
lại sau khi lột xác.
Vì vậy Tây Vương Mẫu bắt đầu một cuộc thực nghiệm
trên quy mô lớn:
Những chiếc bình của Tây Vương Mẫu trong quỷ thành
chứa những đầu người đầy trứng bọ ăn xác chết, chính là thực nghiệm dùng bọ ăn
xác để bảo tồn ký ức.
Bức bích họa ghi lại cảnh cho rắn mào gà ăn trứng bọ
ăn xác chết, cho thấy Tây Vương Mẫu muốn tạo ra loại sinh vật có ưu điểm của cả
bọ ăn xác và rắn mào gà.
Loại sinh vật cực kỳ lợi hại này đã được Tây Vương Mẫu
chế tạo thành công, đúng vậy, chính là bọ ăn xác chúa!
Cổ trong vu cổ cũng được tạo nên bằng cách cho những
sinh vật đáng sợ này ở cùng một chỗ, để chúng nó cắn xé lẫn nhau, cuối cùng giữ
lại một con duy nhất, trở thành cổ (sâu độc).
Bọ ăn xác chúa của Tây Vương Mẫu cũng chính là loài
động vật này.
Nó có sức mạnh của cả bọ ăn xác và rắn mào gà, có thể
bảo trì ký ức, giúp con người giữ được hình dạng con người, lại giúp cho họ có thể
lột da mà sống dậy.
Đương nhiên, bọ ăn xác là thứ kịch độc.
Cho nên, Tây Vương Mẫu phải nhốt thứ này trong một
viên ngọc, chế thành thuốc trường sinh bất lão.
Lúc Tây Vương Mẫu sắp chết, chỉ cần ăn viên thuốc
này vào, nằm trong vẫn ngọc đợi ngày sống dậy.
Lúc này bọ ăn xác chết sẽ đẻ trứng trong não người để
giữ lại ký ức cho người đó, đồng thời vẫn ngọc giúp cho xác chết không bị phân
hủy, thêm vào khả năng lột xác của rắn. Sau vài lần lột da, con người có thể lấy
lại được tuổi trẻ, đồng thời khôi phục trí nhớ, sống lại một lần nữa. Tác dụng
của vẫn ngọc tất nhiên mạnh hơn áo ngọc rất nhiều, quá trình sống lại của Tây
Vương Mẫu chắc sẽ ngắn hơn người khác rất nhiều, đại khái chỉ mất mấy trăm năm?
Phương pháp thứ ba: Ăn đan dược lúc còn trẻ và còn sống
Con người đương nhiên ai cũng có lòng tham, Tây
Vương Mẫu cũng không ngoại lệ.
Tuy rằng thực hiện được việc “sống lại”, nhưng vẫn cần
phải “chết” một khoảng thời gian rất dài.
Nếu như lúc còn trẻ và còn sống bà ta ăn luôn đan dược
chế từ bọ ăn xác chết thì sẽ thế nào?
Nhất định Tây Vương Mẫu thí nghiệm trên vô số người
sống, kết quả là chết ngay tức khắc hoặc trở thành các loại quái vật điên cuồng
như cấm bà. Nói chung là không thành công.
Cuối cùng, Tây Vương Mẫu phát hiện ra một bí mật:
Cách duy nhất để lúc sống ăn luôn đan dược chế từ bọ ăn xác chết mà không nguy
hiểm đến tính mạng, có thể thực hiện được mong muốn trường sinh, chính là: Chui
vào trong vẫn ngọc, không rời khỏi vẫn ngọc.
Như vậy chúng ta có thể đoán được, Tây Vương Mẫu lựa
chọn biện pháp thứ ba.
Người ngồi ở bên ngoài vẫn ngọc, một thi hài rất giống
với Tây Vương Mẫu, chính là “cái bóng của nữ vương”, giúp Tây Vương Mẫu truyền
tin và ra lệnh cho bên ngoài.
Còn người phụ nữ thò đầu ra khỏi vẫn ngọc kia, có lẽ
chính là bản thân Tây Vương Mẫu.
Thứ năm, Chu Mục Vương và Tây Vương Mẫu, thuật trường
sinh được tái hiện lại ở vùng Trung Nguyên.
Trong thần thoại Trung Hoa, Chu Mục Vương là tình
nhân của Tây Vương Mẫu.
Chu Mục Vương đi về phía Tây gặp được Tây Vương Mẫu,
bên cạnh Dao Trì (nơi ở của Tây Vương Mẫu trong thần thoại), uống rượu vẽ
tranh, tâm đầu ý hợp, say sưa bao ngày. Chu Mục Vương đã dùng tơ tằm chói lóa
và ngọc bích quý giá mà mình yêu quý nhất làm quà gặp mặt kiêm vật đính ước.
Giây phút chia tay, Tây Vương Mẫu nói với vị thiên tử
ấy: “Trên trời có mây trắng, dưới đất mọc gò đồi, con đường còn xa xôi, lại núi
sông cách trở, nếu chàng được sống mãi, liệu có trở lại đây?”.
Năm tháng sau này, Tây Vương Mẫu vẫn si ngốc đợi người
tình Mục Vương quay trở lại, nhưng chờ hoài chờ mãi chẳng thấy đâu.
Lý Thương Ẩn từng có câu thơ: “Tám ngựa ngày đi ba vạn
dặm, cớ sao Mục Vương không lại thăm?”.
Chu Mục Vương là vị thiên tử đam mê chinh phạt và
ngao du của thời đại Tây Chu.
Ngài đã cưỡi tám con ngựa đi tới núi Côn Lôn gặp Tây
Vương Mẫu.
Ban đầu, có thể là vì chiến tranh, nhưng hiển nhiên
giống như bích họa kia miêu tả, ông ta không có cách nào đối phó được đám rắn
mào gà.
Ông ta gặp được vị Tây Vương Mẫu đã nghiên cứu ra được
loại đan dược bọ ăn xác giúp trường sinh bất lão kia.
Cho nên bà đã không còn là yêu quái nửa người nửa
thú, trở thành một nữ vương bình thường xinh đẹp tuyệt trần (chép trong “Mục
Thiên Tử Truyện”).
Có thể, Mục Vương và Tây Vương Mẫu gặp nhau giữa chiến
tranh đã si mê lưu luyến, cũng có thể, Mục Vương chỉ là giả vờ đầu hàng giả vờ
yêu thương.
Nhưng Tây Vương Mẫu thật sự thích Chu Mục Vương, vô
cùng dịu dàng lưu luyến, vào thời khắc ly biệt, Tây Vương Mẫu ưng thuận lời hẹn
tái kiến, còn tặng thuốc trường sinh bất tử cho Chu Mục Vương.
Cũng chính là đan dược dùng ngọc thạch bọc lấy bọ ăn
xác chúa, kèm theo chiếc áo ngọc (do vẫn ngọc tạo thành).
Mục Vương và Tây Vương Mẫu cùng nhau ước hẹn. Tây
Vương Mẫu còn trao cho Mục Vương hai vật khác: Một là ấn quỷ để điều động âm
binh, giúp Mục Vương tiếp tục giấc mơ chinh phạt; hai là đàn bọ ăn xác đã bị
Thanh Đồng cổ khống chế (bọ ăn xác đeo chuông lục giác trong Lỗ Vương cung).
Hiện tại có thể giải thích chuông lục giác chính là
Thanh Đồng cổ khống chế động vật thời Phục Hy.
Mục Vương trở lại Trung Nguyên, xây mộ mình trong một
ngọn núi ở Sơn Đông (thường chỉ có đế vương mới xây lăng trong núi).
Lúc sắp chết quả nhiên ông ta đã làm theo lời dặn của
Tây Vương Mẫu, ăn đan dược, mặc áo ngọc, ngồi xếp bằng dưới một gốc cây (lời hẹn
với Tây Vương Mẫu?), đợi đến ngày lột da sống dậy.
Ông ta chôn chung ấn quỷ trong mộ mình, còn thi biệt
dùng để bảo vệ lăng.
Phần04: Sự phát triển bí mật trường
sinh bất lão thời cổ đại (tiếp).
Post a Comment